ThS.BS. Nguyễn Trương Minh Thế
Giảng viên ĐH Y Dược TP. HCM
Khái niệm thể chất
Quan niệm thể chất trong y học cổ truyền là những đặc điểm tương đối ổn định về hình thái và chức năng của cơ thể con người, được biểu hiện trên cơ sở biến dị di truyền. Cụ thể bao gồm:
- Mức độ phát triển hình thái cơ thể: Hình dáng cơ thể, tư thế, tình trạng dinh dưỡng, v.v.
- Mức độ chức năng sinh lý và sinh hóa: Chức năng trao đổi chất của cơ thể và hiệu suất làm việc của các hệ thống, cơ quan trong cơ thể.
- Thể chất và khả năng vận động: Các đặc điểm thể chất như sức mạnh, tốc độ, sức bền, sự linh hoạt, dẻo dai được thể hiện trong cuộc sống, lao động và vận động, cũng như khả năng đi, chạy, nhảy, ném, leo trèo, bò, treo, chống đỡ, v.v.
- Trạng thái tâm lý: Bao gồm khả năng cảm nhận bản thân, tính cách, quan hệ xã hội, ý chí, khả năng phán đoán, v.v.
- Khả năng thích ứng: Khả năng thích ứng với môi trường bên ngoài, khả năng chịu lạnh, chịu nóng và khả năng chống lại bệnh tật.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến thể chất của con người, như di truyền, môi trường, dinh dưỡng, giáo dục, rèn luyện thể dục thể thao, chăm sóc sức khỏe, lối sống, v.v.
Các yếu tố thể chất có mối liên hệ lớn với sự phát bệnh. Tính đặc thù của thể chất cá nhân thường dẫn đến sự nhạy cảm với một số yếu tố gây bệnh hoặc bệnh tật. Tính chất và quá trình bệnh lý của bệnh có mối quan hệ mật thiết với thể chất của bệnh nhân.
Thể chất YHCT có phạm vi ứng dụng rộng rãi, nghiên cứu mối quan hệ giữa các loại thể chất khác nhau và bệnh tật giúp chúng ta cải thiện thể chất, từ đó rút ngắn quá trình điều trị bệnh lý. Xu thể hiện nay trong kiểm soát bệnh tật là chẩn đoán và điều trị cá nhân hóa. Các biện pháp phòng ngừa và điều trị được xây dựng trên cơ sở nhận diện thể chất, xem xét đầy đủ các đặc điểm thể chất của người đó và áp dụng các biện pháp điều trị tương ứng với đặc điểm thể chất của họ. Thực hiện tư tưởng học thuật “trị vị bệnh” (trị bệnh trước khi bệnh) của YHCT, kết hợp thể chất để phòng ngừa bệnh từ góc độ quần thể. Điều này thể hiện đầy đủ tư tưởng lấy con người làm gốc, tùy người mà áp dụng.
Lịch sử về quan niệm thể chất YHCT
Thể chất là một thuật ngữ cổ xưa, các lý thuyết về thể chất đều có ở cả phương Đông và phương Tây từ thời cổ đại. Ở phương Tây, hơn 400 năm trước Công nguyên, Hippocrates đã phân loại cơ thể con người thành các loại yếu, mạnh, béo và ẩm ướt dựa trên đặc điểm hình thể và thể lực. Ở Trung Quốc, lý thuyết về thể chất con người cũng có thể tìm thấy trong "Hoàng Đế Nội Kinh" hơn 2000 năm trước. Nhưng trong một thời gian dài, nội dung về thể chất YHCT chỉ xuất hiện rải rác trong một số sách y học và tài liệu, chưa hình thành một hệ thống chuyên ngành.
Như học giả Ngụy Vương Bật thời Tam quốc, trong sách "Chu Dịch Lược Lệ - Minh Hào Thông Biến" có nói: “Đồng thanh tương ứng, cao thấp không nhất thiết phải đều; đồng khí tương cầu, thể chất không nhất thiết phải giống nhau”. Quách Mạc Nhược trong "Trung Quốc Sử Cảo": "Sự thay đổi thể chất của con người được quyết định bởi lao động, hình thành dần trong quá trình lao động."
Vào những năm 70 của thế kỷ trước, giáo sư Vương Kỳ bắt đầu nghiên cứu lý thuyết, cơ sở và lâm sàng về thể chất YHCT, và dần dần thiết lập hệ thống lý thuyết thể chất YHCT, đưa ra nhiều lý thuyết sáng tạo như bốn nguyên lý cơ bản của thể chất: lý thuyết quá trình thể chất, lý thuyết cấu thành tâm thân, lý thuyết hạn chế môi trường và lý thuyết di truyền bẩm sinh, chúng cùng nhau đặt nền tảng và bối cảnh lý thuyết cho nghiên cứu thể chất sau này.
Các phân loại thể chất y học cổ truyền trong lịch sử
- Phân loại theo ngũ hành: Thiên Âm dương nhị thập ngũ nhân sách Linh khu nói đến việc sử dụng học thuyết âm dương ngũ hành, kết hợp với các đặc điểm về màu da, hình thể, tính khí, thái độ của con người cũng như khả năng thích ứng với sự thay đổi của tự nhiên, để tổng kết và phân loại ra năm loại thể chất khác nhau (Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy). Sau đó, dựa trên ngũ âm thái thiếu, thuộc tính âm dương và sự khác biệt về khí huyết của ba kinh dương ở tay và chân, mỗi loại trên lại được suy diễn thành năm loại, tức là có tổng cộng hai mươi lăm loại thể chất. Tuy nhiên, các đặc điểm về hình thể, tính khí của năm loại thể chất trong mỗi hành là giống nhau, chỉ có sự khác biệt nhỏ về phong cách hành vi, do đó, việc phân loại thể chất theo ngũ hành vẫn là phương pháp chính.
- Phân loại âm dương: Thái âm, Thiếu âm, Thái dương, Thiếu dương, Âm dương, Bình hòa
- Phân loại hình thể béo gầy: Người béo, người gầy, người cân đối
- Phân loại tính cách dũng cảm: Người dũng cảm, người nhút nhát, người trung dung
- Phân loại thể chất hiện đại: Đây là tiêu chuẩn 'Phân loại và xác định thể chất YHCT' chính thức được công bố. Tiêu chuẩn này phân loại thể chất thành chín loại: thể chất trung tính, thể chất khí hư, thể chất dương hư, thể chất âm hư, thể chất đàm thấp, thể chất thấp nhiệt, thể chất ứ huyết, thể chất khí uất, và thể chất đặc biệt. Tiêu chuẩn này sử dụng các phương pháp liên ngành như dịch tễ học, miễn dịch học, sinh học phân tử, di truyền học, và thống kê học, được xây dựng qua nhiều lần luận chứng của các chuyên gia lâm sàng YHCT, chuyên gia dịch tễ.
- Thể chất trung tính
- Tổng thể: Âm dương khí huyết điều hòa, đặc trưng bởi thể trạng trung bình, da mặt hồng hào, tinh thần sung mãn.
- Hình thể: Thể hình cân đối, khỏe mạnh.
- Biểu hiện thường gặp: Da mặt, da dẻ mịn màng, tóc dày và bóng, ánh mắt có thần, mũi sáng, khứu giác thông, môi đỏ hồng, không dễ mệt mỏi, tinh thần sung mãn, chịu được nóng lạnh, ngủ ngon, ăn uống tốt, đại tiểu tiện bình thường, lưỡi màu hồng nhạt, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch hòa hoãn có lực.
- Tâm lý: Tính cách hòa nhã, vui vẻ.
- Xu hướng bệnh: Ít mắc bệnh.
- Khả năng thích ứng: Thích ứng tốt với môi trường tự nhiên và xã hội.
- Tóm lại: Thể chất trung tính có đặc điểm là “có khả năng tự điều hòa và ổn định cao”. Người có thể chất này không nhất thiết phải khỏe mạnh, thậm chí có thể thiếu khí huyết, huyết áp thấp, mạch yếu, nhưng các cơ quan nội tạng và khí huyết rất hài hòa, cảm xúc ổn định. Thể chất trung tính thường biểu hiện cảm xúc ổn định, cuộc sống có quy tắc, cân nặng ít dao động; ít mắc bệnh, khả năng thích ứng với môi trường và khí hậu tốt; khi mắc bệnh, phản ứng với điều trị nhạy bén, dễ chữa, khả năng tự phục hồi cao.
- Thể chất khí hư
- Tổng thể: Nguyên khí không đủ, đặc trưng bởi mệt mỏi, thở ngắn, tự ra mồ hôi.
- Hình thể: Cơ bắp mềm nhão.
- Biểu hiện thường gặp: Giọng nói yếu, thở ngắn, lười nói, dễ mệt mỏi, tinh thần không tốt, dễ ra mồ hôi, lưỡi hồng nhạt, rìa lưỡi có dấu răng, mạch yếu.
- Xu hướng bệnh: Dễ mắc cảm lạnh, nội tạng sa xuống; hồi phục chậm sau bệnh.
- Khả năng thích ứng: Không chịu được gió, lạnh, nóng, ẩm.
- Tóm lại thể chất khí hư có đặc điểm “thiếu khí lực, dễ dị ứng”. "Khí" giúp chúng ta có sức sống, duy trì sự trao đổi chất với môi trường, phân phối dinh dưỡng, thải bỏ chất cặn bã. Khí được tạo thành từ không khí, khí từ thức ăn và nguyên khí. Không khí được Phế hấp thụ, khí từ thức ăn do Tỳ tạo ra, nguyên khí do Thận cung cấp. Do đó, thể chất khí hư là do chức năng của Phế, Tỳ, Thận không đủ, đặc biệt là Phế và Tỳ. Ví dụ, khi vào phòng điều hòa sẽ hắt hơi, mùa xuân cũng hắt hơi. Một số người khí hư rất nhạy cảm với nhiệt độ, cảm giác rất lạnh vào mùa đông, khi mới vào giường lạnh, trong vài phút đầu sẽ nổi mề đay, khi giường ấm lên thì mề đay biến mất; sáng dậy mặc áo bông, áo lạnh, khi mặc vào sẽ nổi mề đay, khi áo ấm lên thì mề đay biến mất.
- Thể chất dương hư
- Tổng thể: Dương khí không đủ, đặc trưng bởi sợ lạnh, tay chân lạnh.
- Hình thể: Cơ bắp mềm nhão.
- Biểu hiện thường gặp: Sợ lạnh, tay chân lạnh, thích ăn uống nóng, tinh thần không tốt, lưỡi nhạt, mạch trầm chậm.
- Xu hướng bệnh: Dễ mắc đàm ẩm, phù thũng, tiêu chảy; dễ bị cảm lạnh.
- Khả năng thích ứng: Chịu được mùa hè, không chịu được mùa đông; dễ bị gió, lạnh, ẩm.
- Tóm lại thể chất dương hư có đặc điểm là “Thiếu năng lượng, sợ lạnh”. Người thường lạnh tay chân quanh năm, mùa hè mọi người thích bật điều hòa, nhưng họ không dám vì sẽ lạnh tay chân, phải mặc thêm áo len. Nếu chỉ lạnh tay vào mùa đông thì không phải dương hư thực sự, mà phải là "tay lạnh quá khuỷu, chân lạnh quá gối" mới là dương hư thực sự. Ví dụ, khi bị cảm, người khác có thể đau họng, chảy nước mũi vàng, ho đờm vàng, viêm amidan mưng mủ; người dương hư bị cảm sẽ chảy nước mũi trong, hắt hơi, ngứa họng, ho đờm trong loãng, phản ánh tình trạng lạnh. Người dương hư thường có cảm giác thiếu năng lượng.
- Thể chất âm hư
- Tổng thể: Âm dịch không đủ, đặc trưng bởi khô miệng, khô họng, tay chân nóng.
- Hình thể: Thể hình gầy.
- Biểu hiện thường gặp: Tay chân nóng, khô miệng, khô họng, mũi khô, thích uống lạnh, đại tiện khô, lưỡi đỏ ít dịch, mạch nhỏ nhanh.
- Xu hướng bệnh: Dễ mắc bệnh suy nhược, mất tinh, mất ngủ; dễ bị cảm nóng.
- Khả năng thích ứng: Chịu được mùa đông, không chịu được mùa hè; không chịu được nóng, khô.
- Tóm lại thể chất âm hư có đặc điểm là “Nóng nảy, khô miệng đắng miệng”. Cơ thể con người cấu thành từ âm dương, dương khí là các hoạt động chức năng, âm là các chất hữu hình, bao gồm dịch âm, dịch tân. Trong cơ thể, âm dương thủy hỏa tương hỗ, chế ước lẫn nhau. Trong trạng thái khỏe mạnh, âm dương cân bằng, không cảm thấy âm thịnh hay dương thịnh, nếu không sẽ là chứng lạnh hoặc chứng nóng. Nhiều người âm hư nội nhiệt thường lo lắng, nóng nảy, trải nghiệm cuộc sống không tốt, chúng ta cần tìm cách giúp họ bình tĩnh lại.
- Thể chất đàm thấp
- Tổng thể: Đàm thấp tụ lại, đặc trưng bởi béo phì, bụng đầy, miệng dính.
- Hình thể: Thể hình béo, bụng đầy mềm.
- Biểu hiện thường gặp: Da mặt dầu, nhiều mồ hôi và dính, ngực tức, nhiều đàm, miệng dính hoặc ngọt, thích ăn béo ngọt, rêu lưỡi dày, mạch trơn.
- Xu hướng bệnh: Dễ mắc tiểu đường, đột quỵ, đau ngực.
- Khả năng thích ứng: Thích ứng kém với mùa mưa và môi trường ẩm.
- Tóm lại thể chất đàm thấp có đặc điểm “Chân nặng, dễ béo phì”. Thể chất đàm thấp là do nước quá nhiều hoặc dòng chảy của sự sống không thông suốt, dẫn đến tắc nghẽn hoặc tràn lan. Nguyên nhân chính là do chức năng của Tỳ không đủ. Cơ thể con người có khoảng 70% là nước, ở trẻ nhỏ hoặc phụ nữ trẻ tỷ lệ này có thể cao hơn. Vì vậy, YHCT nói "mọi bệnh đều do đàm gây ra". Đau lưng, u mỡ, chóng mặt, bệnh cột sống cổ, tăng huyết áp, đái tháo đường, béo phì đơn thuần, bệnh phụ khoa, vô sinh, rối loạn kinh nguyệt đều có thể do đàm thấp gây ra.
- Thể chất thấp nhiệt
- Tổng thể: Thấp nhiệt bên trong, đặc trưng bởi da mặt dầu, miệng đắng, rêu lưỡi vàng dày.
- Hình thể: Thể hình trung bình hoặc gầy.
- Biểu hiện thường gặp: Da mặt dầu, dễ bị mụn, miệng đắng, miệng khô, cơ thể nặng nề, đại tiện dính hoặc táo bón, tiểu ngắn vàng, nam dễ bị ẩm ướt bìu, nữ dễ bị khí hư nhiều, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày, mạch hoạt sác.
- Xu hướng bệnh: Dễ mắc mụn nhọt, vàng da, tiểu nóng.
- Khả năng thích ứng: Khó thích ứng với khí hậu ẩm nóng cuối hè đầu thu, môi trường ẩm hoặc nhiệt độ cao.
- Tóm lại thể chất thấp nhiệt có đặc điểm “Vừa ẩm vừa nóng, bài tiết không thông”. Mọi người đều biết vào "ngày nắng nóng" không khí vừa ẩm vừa nóng, khiến người ta cảm thấy rất khó chịu, thể chất thấp nhiệt trong cơ thể giống như ngày nắng nóng, môi trường bên trong không sạch sẽ, vừa ẩm vừa nóng, bài tiết không thông. Trong môi trường ẩm nóng, mọi thứ rất dễ bị thối rữa, sinh ra mùi khó chịu. Đối với cơ thể, thể chất thấp nhiệt biểu hiện như hôi miệng, mồ hôi có mùi, mồ hôi vàng, da dầu, dễ nhiễm trùng mưng mủ, tiểu vàng, mùi nặng, đại tiện rất hôi, vùng kín có mùi, khí hư màu vàng, miệng đắng, dễ cáu gắt. Thể chất thấp nhiệt thường do các yếu tố trước và sau sinh gây ra, chức năng Can Đởm, Tỳ Vị không thông suốt, Can Đởm uất kết hóa nhiệt, Tỳ Vị tích trệ hóa thấp, thấp nhiệt bốc lên mà thành.
- Thể chất ứ huyết
- Tổng thể: Máu lưu thông kém, đặc trưng bởi da sạm, lưỡi tím.
- Hình thể: Cả béo và gầy đều có.
- Biểu hiện thường gặp: Da sạm, sắc tố lắng đọng, dễ xuất hiện vết bầm, môi tím, lưỡi tím hoặc có điểm ứ, mạch máu dưới lưỡi tím hoặc dày, mạch sáp.
- Xu hướng bệnh: Dễ mắc bệnh u cục và đau, bệnh về máu.
- Khả năng thích ứng: Không chịu được lạnh.
- Tóm lại thể chất ứ huyết có đặc điểm “Da sạm, dễ sinh khối u”. Thể chất ứ huyết là do máu lưu thông không thuận lợi, hơi chậm lại, nhưng chưa đến mức bệnh lý. "Thông tắc bất thống, thống tắc bất thông", do đó thể chất ứ huyết dễ sinh ra các bệnh đau đớn, và đau kéo dài, vị trí cố định, là đau nhói, đau tức, ví dụ như đau nửa đầu, đau do kinh nguyệt, đau dạ dày, đau ngực, bệnh tê thấp, và đau kéo dài, ứ huyết lâu ngày còn sinh ra khối u. Nếu máu lưu thông không tốt, còn gây ra nhiều thay đổi ngoại hình, ví dụ như da mặt và môi sạm, dễ sinh đốm sắc tố, để lại sẹo, quầng thâm mắt. Thể chất ứ huyết khi mắc bệnh, nếu không điều trị kịp thời và đúng cách rất dễ chuyển thành bệnh mạn tính khó chữa, YHCT có câu "bệnh lâu vào lạc", "vào lạc" nghĩa là bệnh ở vị trí sâu, thuốc khó đến được.
- Thể chất khí uất
- Tổng thể: Khí không lưu thông, đặc trưng bởi tâm trạng u uất, lo lắng.
- Hình thể: Thường gầy.
- Biểu hiện thường gặp: Tâm trạng u uất, dễ xúc động, buồn bã, lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch huyền.
- Tâm lý: Tính cách hướng nội, không ổn định, nhạy cảm, lo lắng.
- Xu hướng bệnh: Dễ mắc bệnh tâm thần, stress, mai hạch khí, tinh thần hốt hoảng.
- Khả năng thích ứng: Khả năng thích ứng kém với kích thích tinh thần; không thích ứng với thời tiết mưa.
- Tóm lại thể chất khí uất có đặc điểm “Khí không thông, cảm xúc u uất”. Làm thế nào để hiểu "khí uất"? Hãy thử cảm nhận, trong trạng thái "lý không thông, khí không thuận", "không nuốt nổi cục tức này", "thật bức bối", "thật u uất", "nghẹn lòng", "thêm bực bội", cơ thể và tâm trí cảm thấy thế nào. "Khí" là sức mạnh, là động lực, phải đủ lực, đồng thời khí khi phát huy tác dụng phải thông suốt, không bị cản trở. Trong cơ thể, khí vận hành cơ bản là lên xuống ra vào, tức là khí trong sạch lên trên, khí đục xuống dưới, dương khí phát tán, âm tinh thu lại. Quá trình này phải thông suốt, con người mới cảm thấy thoải mái.
- Thể chất đặc biệt
- Tổng thể: Bẩm sinh không bình thường, đặc trưng bởi khuyết tật sinh lý, phản ứng dị ứng.
- Hình thể: Người có thể chất dị ứng thường không có đặc điểm hình thể đặc biệt; người có bẩm sinh không bình thường có thể có dị tật hoặc khuyết tật sinh lý.
- Biểu hiện thường gặp: Người có thể chất dị ứng thường bị hen suyễn, mề đay, ngứa họng, nghẹt mũi, hắt hơi; người mắc bệnh di truyền có đặc điểm di truyền dọc, bẩm sinh, gia đình; người mắc bệnh truyền từ mẹ có đặc điểm ảnh hưởng của mẹ đến sự phát triển và bệnh tật của thai nhi.
- Tâm lý: Tùy theo thể chất khác nhau mà khác nhau.
- Xu hướng bệnh: Người có thể chất dị ứng dễ mắc hen suyễn, mề đay, viêm mũi dị ứng và dị ứng thuốc; bệnh di truyền như bệnh máu khó đông, hội chứng Down; bệnh truyền từ mẹ như chậm phát triển, ngũ trì (chậm đứng, chậm đi, chậm mọc răng, chậm nói), ngũ nhuyễn (đầu mềm, cổ mềm, tay chân mềm, cơ mềm, miệng mềm), bất thường giải phẫu hộp sọ, động kinh.
Trong nhóm người bình thường đều có chín loại thể chất này. Tuy nhiên, về thể chất cá nhân, không thể chỉ có một loại thể chất đơn thuần như dương hư, ứ huyết hay đàm thấp, mà thường là sự kết hợp của các loại thể chất, ví dụ như ứ huyết kèm đàm thấp và khí hư, dương hư kèm thấp nhiệt, âm hư kèm thấp nhiệt và ứ huyết. Thể chất của trẻ em có thể đơn giản hơn, vì vậy các thầy thuốc cổ đại nói "trẻ em tạng khí thanh linh". Tuy nhiên, theo sự thay đổi của môi trường, tuổi tác và các yếu tố sau sinh khác, thể chất cũng thay đổi.
Thực tế lâm sàng hàng ngày, các thầy thuốc YHCT thường gặp các yếu tố liên quan đến thể chất ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị như cùng một loại thuốc điều trị cùng một bệnh nhưng có thể cho kết quả khác nhau; có người bị dị ứng hoặc không phù hợp; một số ít chỉ phản ứng với tác dụng phụ của thuốc, không có hiệu quả. Do đó ngoài vấn đề bệnh lý, chúng ta cũng luôn chú ý đến các vấn đề thể chất như sau:
Về hình dáng, có người cao lớn mạnh mẽ, có người nhỏ gọn, có người to lớn, có người nhỏ nhắn xinh xắn, phụ nữ thì có người mập mạp, có người gầy gò, hình dáng khác nhau.
Về da, có người da rất đẹp, mịn màng như ngọc, không cần tốn nhiều tiền mua mỹ phẩm, da luôn sáng bóng quanh năm; có người da khô, đặc biệt vào mùa thu đông, luôn cần dùng các sản phẩm dưỡng ẩm; có người da dầu, lỗ chân lông to, mặt luôn bóng dầu, thỉnh thoảng nổi mụn, rất phiền phức.
Về tóc, có người tóc dày đen mượt; có người tóc thưa vàng mềm.
Về tính cách tâm lý, có người rộng lượng, có người hẹp hòi; có người nhạy cảm, có người chậm chạp; có người hướng ngoại vui vẻ, có người nội tâm trầm lặng.
Về bệnh tật, tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh tâm thần, ung thư, hoặc hen suyễn thường có tiền sử gia đình rõ ràng, trong một gia đình có thể có nhiều người mắc bệnh. Những bệnh này không di truyền, nhưng do đặc điểm bẩm sinh của gia đình có điểm chung, thể chất di truyền, khiến họ dễ mắc các bệnh này.
- PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH CHO NGƯỜI CÓ THỂ CHẤT KHÍ HƯ (02.01.2025)
- PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH CHO NGƯỜI CÓ THỂ CHẤT BÌNH HÒA (TRUNG TÍNH) (24.12.2024)
- ĂN UỐNG ĐÚNG CÁCH THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN ĐỂ KHỎE MẠNH VÀ TRƯỜNG THỌ (19.12.2024)
- CHÂM CỨU ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG KIỂM SOÁT Ở NGƯỜI LỚN TUỔI (16.12.2024)
- NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI “Ở CỬ” (14.12.2024)
- ĐAU ĐẦU SAU SINH: NHÌN TỪ GÓC ĐỘ Y HỌC CỔ TRUYỀN (14.12.2024)
- BÍ QUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN TRONG NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ (13.12.2024)
- ĐƯƠNG QUY - "NHÂN SÂM" CỦA PHỤ NỮ (12.12.2024)
- PHƯƠNG THUỐC SINH HÓA THANG CỦA PHÓ THANH CHỦ (12.12.2024)
- ĐAU NHỨC TOÀN THÂN SAU SINH (11.12.2024)